Thu nhập – Thoitranglamdep.com https://thoitranglamdep.com Tạp chí thời trang & thẩm mỹ Việt Nam Mon, 04 Aug 2025 07:17:11 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/thoitranglamdep/2025/08/thoitranglamdep.svg Thu nhập – Thoitranglamdep.com https://thoitranglamdep.com 32 32 Nâng cao thu nhập nhờ phát triển ngành măng cho phụ nữ dân tộc thiểu số Lào Cai https://thoitranglamdep.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai/ Mon, 04 Aug 2025 07:16:51 +0000 https://thoitranglamdep.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-nganh-mang-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-lao-cai/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Việt Nam mất lao động tay nghề vì ra nước ngoài tìm việc lương cao https://thoitranglamdep.com/viet-nam-mat-lao-dong-tay-nghe-vi-ra-nuoc-ngoai-tim-viec-luong-cao/ Sat, 19 Jul 2025 12:47:19 +0000 https://thoitranglamdep.com/viet-nam-mat-lao-dong-tay-nghe-vi-ra-nuoc-ngoai-tim-viec-luong-cao/

Xu hướng lao động tay nghề tìm kiếm cơ hội việc làm ở nước ngoài đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại cho các ngành công nghiệp nội địa của Indonesia. Nhiều người trẻ trình độ cao đang rời bỏ quê hương để tìm kiếm việc làm tốt hơn ở nước ngoài, gây ra tình trạng ‘chảy máu chất xám’.

Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 2.
Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 2.

Anh Hirdan Radityatama Putra Laisa, 28 tuổi, là một trong số đó. Tốt nghiệp Đại học Indonesia năm 2019, hiện anh làm việc tại Tokyo với mức thu nhập 6 triệu yên/năm (khoảng 41.600 USD), gấp gần 6 lần so với mức lương của một người cùng trình độ và kỹ năng làm việc ở Indonesia. Laisa cho biết nhiều bạn của anh cũng đang tìm kiếm cơ hội làm việc ở nước ngoài.

Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 3.
Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 3.

Trong nhiều thập kỷ, Indonesia là quốc gia cung cấp nhiều người giúp việc và lao động phổ thông nhất thế giới. Tuy nhiên, những năm gần đây, ngày càng nhiều người trẻ trình độ cao như Laisa xuất ngoại tìm việc làm tốt hơn ở Nhật, Australia, Singapore… Điều này khiến giới lãnh đạo doanh nghiệp lo ngại về nguy cơ chảy máu chất xám.

Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 4.
Buồn của nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á: Nhân tài lũ lượt rời khỏi đất nước tìm cơ hội việc làm mới, doanh nghiệp chật vật giữ chân lao động trình độ cao- Ảnh 4.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ nhập học bậc đại học, cao đẳng, trường nghề của Indonesia đã tăng từ 16% năm 2003 lên 45% năm 2023. Tuy nhiên, nhiều cử nhân vẫn không tìm được việc tương xứng với kỹ năng. Nhà nghiên cứu Firman Budianto tại BRIN nhận định: ‘Indonesia có ngày càng nhiều người học vấn cao, nhưng lại thiếu công việc có mức lương cạnh tranh’. Điều này khiến lực lượng lao động trình độ cao sang nước ngoài làm việc.

Theo số liệu chính phủ, lương trung bình ở Indonesia chỉ đạt 3,09 triệu rupiah mỗi tháng (khoảng 190 USD) tính đến tháng 2/2024. Kết quả là lao động trình độ cao ra nước ngoài ngày càng nhiều. Năm 2024, số lao động di cư đã tốt nghiệp trung cấp nghề tăng 83% (4.505 người) và nhóm có bằng cử nhân tăng 2,3 lần (3.421 người), chiếm 2,7% tổng lao động đi xuất khẩu.

Dữ liệu từ cơ quan thống kê Indonesia cho thấy tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 4,82% xuống 4,76% vào tháng 2. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của lao động có bằng đại học là 5,25% trong năm 2024, cao hơn so với tỷ lệ thất nghiệp của lao động trình độ trung học phổ thông là 4,11%.

Nhật Bản đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với lao động Indonesia trình độ cao. Dữ liệu Bộ Tư pháp Nhật Bản cho thấy số người Indonesia là chuyên gia cấp cao và kỹ sư đã tăng từ 1.678 người năm 2016 lên 7.904 người năm 2024.

Để ngăn ‘chảy máu chất xám’, Chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Indonesia Arsjad Rasjid kêu gọi doanh nghiệp cần nâng chuẩn quốc tế và đầu tư vào đổi mới để thu hút nhân tài. Một số doanh nghiệp nội địa đã tổ chức chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ. Ví dụ, nhà cung cấp dịch vụ gọi xe và giao đồ ăn GoTo Group năm ngoái đã đào tạo 43 kỹ sư mới tốt nghiệp.

Giám đốc nhân sự GoTo Monica Lynn Mulyanto khẳng định đây là đầu tư chiến lược cho chủ quyền số và năng lực dài hạn. Tập đoàn khai thác quốc doanh Mind ID cũng triển khai nhiều chương trình phát triển nguồn nhân lực bao gồm đào tạo liên ngành, các cuộc thi đổi mới sáng tạo hỗ trợ phát triển nghề nghiệp và các chương trình chia sẻ kiến thức để chuẩn hóa thông tin và kiến thức chuyên môn.

Bộ trưởng Bộ Nhân lực Yassierli cho biết nếu người dân Indonesia muốn nâng cao kỹ năng và tìm việc làm tốt hơn ở nước ngoài, họ có thể đi. Nhưng trong tương lai, họ nên trở về xây dựng đất nước. Đây là thời điểm quan trọng để Indonesia cân nhắc chính sách giữ chân nguồn nhân lực chất lượng, xây dựng cơ hội việc làm trong nước và cải thiện hệ thống giáo dục – đào tạo để không bỏ lỡ ‘cơ hội vàng’ từ dân số trẻ trình độ cao.

]]>